Những ngày cuối năm Thìn đã cận kề, phố phường đã rộn ràng, tất bật. Người người, nhà nhà ai nấy đều hối hả mua sắm Tết. Đồ ăn ngày Tết bây giờ đâu thiếu thứ gì, có đủ loại mỹ vị Á Âu, nhà nào cũng muốn làm hay mua một vài món độc đáo, lạ miệng để ăn và đãi khách. Nhưng luôn có một món ăn trong tất cả các mâm cơm Tết của mỗi gia đình người Việt – mộc mạc thế, dung dị thế mà không thể thiếu được, có món ăn này mới là có Tết. Đó chính là bánh chưng, bánh tét.
Những ngày cận Tết, gió cuối đông se lạnh, những hàng đào chớm nụ, nhiều người lại nao nao nhớ về những ngày Tết xưa. Những ngày mà bánh chưng không chỉ là món ăn mà còn là một phần ký ức – là quê hương, là tình thân, là gia đình. Không khí ngày cuối năm trong xóm, trong nhà tất bật và náo nhiệt, mọi người cùng nhau rửa lá dong, vo gạo, thái thịt. Những người khéo tay nhất thường được chọn để thực hiện công đoạn quan trọng – gói từng chiếc bánh vuông vức bằng lá dong xanh.
Những đêm giáp Tết, ánh lửa bập bùng hắt lên những khuôn mặt rạng rỡ. Trẻ con ngồi chầu chực bên nồi bánh, chỉ mong nhanh chín để được bố mẹ vớt cho chiếc bánh nhỏ làm vét cuối cùng. Mùi nếp mới quyện với hương thơm của đậu xanh, thịt mỡ, lá dong cùng hương bếp lửa phảng phất trong gió se se lạnh. Sáng mùng Một, chiếc bánh chưng xanh được đặt lên bàn thờ, nghiêm trang như một lời cảm ơn đất trời, tổ tiên, cùng lời cầu chúc an khang, sung túc cho cả năm.
Tại miền Bắc, bánh chưng đã đi qua bao thế hệ, gắn liền với truyền thuyết Lang Liêu dâng Vua Hùng, món quà tượng trưng cho Đất. Bánh chưng miền Bắc khi ăn sẽ có vị béo bùi, mặn mà, ngậy, thơm của thịt mỡ, đậu xanh hòa quyện với nếp thơm.
Nhưng bánh chưng không chỉ dừng lại ở một màu xanh thân thuộc ấy. Một phiên bản khác của bánh chưng vuông chính là bánh chưng mật, dành cho những người yêu thích vị ngọt. Cách gói tương tự, phần nhân cũng bao gồm nếp, đậu xanh, thịt mỡ nhưng khác biệt lớn nhất của bánh chưng mật nằm ở lớp vỏ gạo nếp được trộn thêm mật mía, tạo nên màu nâu óng ánh và vị đậm đà, lôi cuốn.

Ngoài ra, người dân miền Bắc còn biến tấu thêm nhiều dòng bánh chưng “cách tân” như bánh chưng gấc màu đỏ tươi tắn có vị ngọt dịu so với bánh chưng mật, bánh chưng gạo lứt cho chế độ ăn uống lành mạnh, bánh chưng mini xinh xắn dành tặng bé.
Nơi địa đầu Tổ quốc – cao nguyên đá Hà Giang hùng vĩ và và một vài vùng miền núi phía Bắc Việt Nam, bánh chưng gù là một món ăn và nét văn hóa đặc trưng ngày Tết.

Khác biệt với bánh chưng vuông truyền thống của đồng bằng, bánh chưng gù có hình dáng nhỏ nhắn nhưng thật ấn tượng, hình dáng hơi nhô lên như chiếc gùi của những người phụ nữ Mông tần tảo. Vì lẽ đó, nhiều người đùa nhau rằng đây là chiếc bánh của “nữ quyền” vì bánh chưng gù thường được các mẹ, các chị mang theo khi làm nương, làm rẫy, cũng như được các bài viết thời hiện đại gọi tên như một món ăn tôn vinh nét đẹp văn hóa bản địa và hình ảnh người phụ nữ vùng cao chăm chỉ, cần mẫn.
Chiếc bánh chưng gù được làm từ những nguyên liệu thân thuộc: Gạo nếp nương dẻo thơm, đậu xanh bùi béo, thịt lợn đen thơm ngậy, và lá dong riềng xanh mướt. Mỗi bước gói bánh mang theo sự tận tâm của người làm, thể hiện rõ tinh thần “khéo tay hay làm” trong văn hóa dân tộc. Người vùng cao nói rằng, ăn bánh chưng gù là cảm nhận được cái hồn của đất, cái tình của người, cái chân chất mộc mạc của những con người nơi rừng núi.
Tết hiện đại, bánh chưng gù được cả người dân khắp mọi miền Tổ quốc tìm mua, sẻ chia như một thức quà đặc sản, tặng nhau thay cho lời chúc năm mới đủ đầy, no ấm giản dị. Đến Hà Giang, nếu quý khách được người địa phương mời ăn bánh chưng gù, điều đó có nghĩa là họ rất trân trọng và yêu quý bạn.
Không vuông vức như bánh chưng miền Bắc, cũng chẳng nhỏ nhắn gù lưng như bánh chưng vùng cao, bánh tét, biểu tượng ngày Tết của miền Trung và miền Nam Việt Nam, có dáng hình dài tròn, ruột đặc và nặng.
Nguyên liệu chính vẫn là gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn nhưng cách cách chế biến lại khá độc đáo. Gạo nếp sau khi đãi sạch sẽ được trộn với lá cẩm hoặc lá dứa để tạo màu sắc bắt mắt – tím, xanh, đỏ từ các lại rau, củ tự nhiên như lá cẩm, lá nếp, gấc… Bánh ở đây phong phú cả về hương vị và nhân bánh, thể hiện sự sáng tạo của người dân. Có nhiều loại bánh tét độc đáo như: bánh tét chuối, bánh tét đậu, bánh tét nước tro, bánh tét lá cẩm, bánh tét nhân sâm, bánh tét chùm ngây…
Ở miền Bắc, bánh chưng được gói bằng lá dong, thì bánh tét miền Trung, miền Nam lại bọc bằng chuối. Khi gói và luộc, bánh được cuộn chặt trong lá chuối, buộc dây lạt chắc tay và nấu kỹ trong nhiều giờ.
Không chỉ thơm ngon, bánh tét còn đong đầy ý nghĩa ân tình. Với người miền Trung, chiếc bánh dài tròn tượng trưng cho sự trọn vẹn, như vòng tuần hoàn của đất trời. Người miền Nam lại yêu bánh tét bởi sự giản dị và chân chất, giống như tính cách phóng khoáng, cởi mở của người Nam bộ.
Trên đất Cố đô, làng Chuồn mấy trăm năm qua nổi danh với truyền thống làm bánh tét. Đây là một ngôi làng cổ nhỏ nằm cạnh Phá Tam Giang, nổi tiếng với làng nghề làm bánh Tét tiến Vua từ xa xưa. Đặc biệt là mỗi dịp Tết đến xuân về thì người người đều nô nức về làng Chuồn để mua được loại bánh này.
Loại nếp dùng để làm bánh tét làng Chuồn phải là nếp Tây đều hạt. Phần thịt lợn làm nhân phải luôn là thịt ba chỉ, ướp cùng một vài loại gia vị. Lá để dùng gói bánh tét làng Chuồn là loại lá chuối sứ bản to, dày dặn, không quá non cũng không quá già, lá mới có độ dai và không dễ rách. Người Huế thưởng thức bánh tét bằng cách tét bánh bằng sợi dây lạt buộc bánh, xong đó sắp bánh ra đĩa ăn kèm cùng với dưa món giòn giòn mặn mặn. Miếng bánh mềm dẻo và thoang thoảng mùi thơm của nếp Tây, vị bùi bùi của đậu xanh kết hợp cùng vị béo ngậy của thịt ba chỉ và một chút vị cay nồng của tiêu hành. Tất cả tạo nên một đòn bánh tét làng Chuồn thơm ngon, hấp dẫn.

Không chỉ nổi danh xứ Huế, bánh tét làng Chuồn còn được đông đảo thực khách thành phố Hồ Chí Minh yêu thích. Những nhà làm bánh tét nổi danh tại làng Chuồn cứ đến dịp Tết hàng năm lại tất bật chuẩn bị hàng ngàn chiếc bánh theo đơn hàng của khách miền Nam; còn có nghệ nhân cứ dịp giáp Tết hàng năm lại được mua vé mời vào thành phố Hồ Chí Minh gói bánh, gói xong đến ngày 30 Tết mới khăn gói lên máy bay về Huế.

Với người miền Nam, ngoài bánh tét, trên mâm cúng của người miền còn có thịt kho hột vịt, canh khổ qua nhồi thịt, gà luộc, và đĩa dưa món. Mỗi món ăn đều gửi gắm lời cầu chúc cho năm mới: khổ qua để “vượt khổ”, thịt kho tượng trưng cho sự sum vầy, và mâm ngũ quả “cầu, dừa, đủ, xoài” ước mong đủ đầy, sung túc.
Ngày Tết, bánh tét cũng được trao gởi như món quà thân tình giữa xóm giềng, bạn bè. Một đòn bánh tét được gói ghém cẩn thận, buộc chặt tay, treo lủng lẳng, chứa đựng cả tấm lòng, sự biết ơn, và lời chúc năm mới an lành.
Dù là người con miền nào, khi nhà có bánh chưng, bánh tét trên mâm cỗ Tết thì đó chính là những khoảnh khắc đoàn viên sum họp, lưu giữ ký ức ý nghĩa cho câu chuyện gia đình, quê hương trân quý. Tết này, mời quý khách cùng gia đình đến với Silk Path Hotels & Resorts để tận hưởng không gian thơ mộng, yên bình, ấm áp, cùng khám phá nét đẹp vị Tết các vùng miền. Một chuyến đi xa hơn vạn món quà, ở Hà Nội – Sa Pa – Huế có Silk Path chờ!